Nhiệm vụ tuyệt mật của Tổ GK1 thời chống Mỹ
(PNTĐ) - Trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc nhằm chặn đứng sự chi viện cho miền Nam, có một chiến thắng vang dội được ví như “Điện Biên Phủ dưới nước” nhằm phá tan âm mưu “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. Đó là cuộc chiến chống phong tỏa đường biển bằng thủy lôi và bom từ trường do Mỹ rải thảm xuống khu vực đường sông, cảng biển của Việt Nam. Thành công vang dội này có đóng góp thầm lặng của những nhà khoa học với nhiệm vụ tối mật - mang bí danh Tổ GK1.

Giặc điên cuồng chống phá
Trong suốt 7 năm (từ 1967-1973), chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ thất bại ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành phong tỏa bằng thủy lôi ở miền Bắc với quy mô chưa từng có. Chúng coi đây là hành động quân sự có tính chất quyết định để làm tê liệt ý chí chiến đấu của nhân dân ta, đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá.
Đầu năm 1967, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đưa cuộc chiến tranh cục bộ lên đỉnh cao, đồng thời Tổng thống Mỹ Giôn-xơn cũng bí mật cho rải thủy lôi ở các cửa sông, bến cảng phía Bắc. Ngày 26/2/1967, những quả thủy lôi đầu tiên được Mỹ thả xuống cảng Hải Phòng, mở đầu chiến dịch phong tỏa các cảng sông miền Bắc. Mỹ sử dụng hỗn hợp nhiều loại thủy lôi: Thủy lôi từ trường, thủy lôi âm thanh, thủy lôi chạm nổ, thủy lôi áp suất… nhằm mục tiêu đánh chìm nhiều loại tàu chiến, tàu vận tải của ta, ngăn chặn việc chi viện cho chiến trường miền Nam và sự giúp đỡ của các nước XHCN đối với Việt Nam. Tiếp đến chúng chọn các cửa sông Mã, sông Gianh, cửa Hội, Nhật Lệ... là những đầu mối giao thông huyết mạch của ta lúc bấy giờ để thả thủy lôi.
Từ ngày 26/2 đến ngày 21/5/1967, liên tiếp nhiều đêm, máy bay Mỹ lẻn vào thả tổng cộng 160 quả thủy lôi. Từ tháng 6/1967, địch dùng bom từ trường thay thế thủy lôi. Đồng thời chúng mở chiến dịch đánh phá phong tỏa cảng Hải Phòng bằng máy bay, kết hợp rải hàng ngàn bom từ trường trên các luồng sông, cửa biển, bến phà... tạo thành vành đai ngăn chặn hoạt động các phương tiện vận chuyển đường thủy. Máy bay B52 và máy bay A6A ngày đêm ném bom và thả ngư lôi phong tỏa cửa sông, cảng biển ở nhiều tỉnh phía Bắc. Theo tài liệu của Ty An toàn hàng hải miền Bắc, năm 1967-1968, Mỹ phong tỏa khu vực Hải Phòng gần 1.500 quả, các tuyến khác là 6.680 quả bom từ trường và thủy lôi các loại. Cuộc chiến tranh phong tỏa lần thứ 2, bắt đầu từ 9/5/1972, Mỹ phong tỏa tuyến duyên hải 5.431 quả, Quảng Ninh 1.142 quả và tại Hải Phòng 1.735 quả bom từ trường và thủy lôi các loại. Chúng phong tỏa nhiều lần, nhiều hướng chồng chất và liên tục bổ sung. Mỹ công khai tuyên bố làm tê liệt cảng Hải Phòng bằng việc ném bom và thả mìn, làm tiêu hao và mòn mỏi ý chí của quân và dân ta...
Nhiệm vụ tối mật của tổ GK1
Trước tình hình đó, ngành Giao thông vận tải (GTVT) cần được bổ sung thêm lực lượng nghiên cứu và xây dựng phương án rà phá bom mìn để đối phó với những thủ đoạn mới của địch. Bộ trưởng GTVT Phan Trọng Tuệ (nguyên Thiếu tướng quân đội) đặt vấn đề phối hợp với Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp do GS Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng. Và Trường đại học Bách khoa Hà Nội (ĐHBK), một trung tâm đào tạo, nghiên cứu về khoa học-công nghệ lớn nhất nước ta ngày ấy được chọn là đầu mối phối hợp nghiên cứu. Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ ra Quyết định số 338/BT thành lập Tiểu ban Rà phá bom mìn, thủy lôi trong Ban Bảo đảm giao thông. Tiểu ban này có 6 tổ chuyên môn, riêng tổ số 1 có tên là “Nghiên cứu cơ bản và thiết kế phương án” do GS, TSKH Vũ Đình Cự thuộc Đại học Bách Khoa (ĐHBK) làm tổ trưởng và các tổ viên đều là cán bộ ĐHBK. Tổ này có mật danh là GK1 thành lập từ cuối tháng 5/1972 với ý nghĩa G là Giao thông, K là Bách khoa, 1 là tổ phối hợp đầu tiên… Ngoài GS Vũ Đình Cự (tổ trưởng), còn có các thành viên: PGS.TS Nguyễn Bính ngành Tự động hóa; PGS Bùi Minh Tiêu ngành Vô tuyến điện tử; PGS.TS Nguyễn Xuân Chánh ngành Vật lý chất rắn; PGS Nguyễn Nguyên Phong ngành Vật lý hạt nhân; PGS Nguyễn Trọng Quế ngành Thiết bị điện và đo lường.
Nhiệm vụ của Tổ GK1 là phải tập trung trí tuệ tìm cho ra “cái bẫy” điều khiển tự động cài đặt trong vũ khí của địch. Rà phá được bom mìn, thủy lôi, nhưng phải giảm thiểu, không để xảy ra thương vong cho người và phương tiện. Trong một thời gian ngắn, các GS, TS Đại học Bách Khoa đã tiếp cận được hiện vật quan trọng là quả thủy lôi MK-52 còn nguyên vẹn và quả MK-36 với đầu điều khiển MK-42 mod 3. Lúc đó, có tin đồn loại thủy lôi này có cảm biến từ, cảm biến âm và có thể điều khiển từ xa. Tuy nhiên, sau thời gian nỗ lực nghiên cứu, các GS, TS đầu ngành khẳng định thủy lôi MK-52 có cảm biến là thanh sắt từ các bộ phận tương đối cổ điển dễ nhận biết song mạch điều khiển có những cải tiến. Còn thủy lôi nhỏ hay bom từ trường MK-36 có đầu điều khiển MK-42 rất đặc biệt, nhiều linh kiện bán dẫn đúc kín và cảm biến là màng mỏng từ. Đây là một thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới lúc đó, được Mỹ ứng dụng ngay vào chiến tranh. Một sự trùng hợp là đề tài nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ của GS Vũ Đình Cự tại Đại học Lômônôxốp (Liên Xô cũ) cũng chính là lĩnh vực này. Vì thế cái bẫy màng mỏng từ nhanh chóng được phát hiện và bài toán phức tạp về hệ thống điều khiển tự động cũng dần dần được giải mã.
Trong hồi ức của PGS Nguyễn Trọng Quế (SN 1931), giai đoạn Tổ GK1 thực hiện nhiệm vụ đặc biệt, có sự đóng góp quan trọng của TS Nguyễn Bính ngành Tự động hóa và PGS Bùi Minh Tiêu ngành Vô tuyến điện tử - người anh cả của nhóm. Cũng cần phải nói thêm trong thời gian nghiên cứu, Trường ĐHBK đã tập trung nhiều thiết bị hiện đại do Liên Xô vừa trang bị để tổ GK sử dụng, bố trí bảo vệ cẩn mật để Tổ tập trung toàn lực nghiên cứu. Nhờ vậy, chỉ vẻn vẹn hơn 3 tháng, nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản để đưa ra các biện pháp rà phá thủy lôi và bom từ trường đã hoàn thành. Không chỉ phổ biến để các đơn vị của Bộ GTVT hiểu nguyên lý để cải tiến cách rà phá hiệu quả, tổ GK1 còn tổ chức cho các xưởng ở ĐHBK làm ra các dụng cụ máy móc mới để rà phá và phục vụ việc rà phá.
Công việc từ phòng thí nghiệm ra chiến trường được triển khai hết sức mau lẹ, hiệu quả cao. Nhờ các loại thiết bị ứng phó tuyệt vời của ta mà cuộc chống phong tỏa đến năm 1973 đã đạt được những kết quả to lớn. Nhiều thủy lôi từ tính và bom từ trường mà địch rải xuống cảng sông, biển đều được phá, tháo gỡ, đặc biệt trong các năm 1972-1973 khi triển khai các ứng dụng nghiên cứu của GK1 đã không xảy ra trường hợp thương vong, thiệt hại nào cho các chiến sĩ cùng phương tiện rà phá. Tất cả các công việc GK làm đều thuộc diện bí mật. Vào nửa cuối năm 1973, tổ GK1 mới được biết đến và được Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý, Tổ GK1 do GS.TS Vũ Đình Cự được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều bằng khen cho tổ và các thành viên.
Chiến tranh đã lùi xa, song những giá trị mà các nhà khoa học và công nghệ đang đóng góp công sức của mình cho thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vẫn còn nguyên giá trị. Nhờ đóng góp to lớn của các nhà khoa học công nghệ mà trong bất kỳ hoàn cảnh nào, trong thời chiến cũng như thời bình, nếu biết phát huy sức mạnh và trí tuệ tập thể đều sẽ đem lại những thành công to lớn. Tổ GK1 là một ví dụ điển hình.