“Tuyên ngôn Độc lập”:

Thời khắc lịch sử và tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hoàng Nhất
Chia sẻ

(PNTĐ) - Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, trịnh trọng tuyên bố trước toàn nhân dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). “Tuyên ngôn Độc lập” khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Trong 80 năm qua, giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn còn nguyên giá trị đối với lịch sử cách mạng Việt Nam và tiến trình xây dựng, phát triển đất nước ngày một lớn mạnh, hùng cường.

Thời khắc lịch sử và tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh - ảnh 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tại Vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình). Ảnh Tư liệu

Chân lý vĩnh cửu về quyền con người, quyền độc lập dân tộc
Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội đã tạo nên chuyển biến nhảy vọt của Tổng khởi nghĩa, đồng thời tạo điều kiện để Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiếp tục chỉ đạo Tổng khởi nghĩa, xúc tiến chuẩn bị ngay cho việc ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) về tới Hà Nội. Sau khi nghe báo cáo tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội, chiều 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tổ chức tại số nhà 48 phố Hàng Ngang (Hà Nội), để bàn những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước cách mạng.

Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương của Ban Thường vụ mở rộng thành phần Ủy ban Giải phóng dân tộc và sớm công bố danh sách của Ủy ban cho toàn dân biết, chuẩn bị bản “Tuyên ngôn Độc lập” và tổ chức cuộc mít-tinh lớn ở Hà Nội để Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt nhân dân. Ngày ra mắt của Ủy ban cũng là ngày Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 27/8/1945, Ủy ban Giải phóng dân tộc họp tại Hà Nội. Tại cuộc họp này, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu Chính phủ cách mạng lâm thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Theo đó, danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được công bố trên các báo ở Hà Nội vào ngày hôm sau.

Đêm 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khởi thảo bản “Tuyên ngôn Độc lập” tại nhà số 48 Hàng Ngang. Ngày 30/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến vào văn kiện lịch sử quan trọng này. Ngày 31/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định bổ sung một số điểm vào bản Tuyên ngôn và được Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thông qua trước khi công bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới vào ngày 2/9/1945 tại Hà Nội.

Đúng 14 giờ ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, các thành viên của Chính phủ lâm thời bước lên lễ dài. Bài Tiến quân ca vang lên hào hùng, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên. Trong không khí trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử, tuyên bố với toàn thể nhân dân, với thế giới rằng: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do ra đời. 

Mở đầu bản Tuyên ngôn là một chân lý vĩnh cửu về quyền con người và quyền bình đẳng, Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, và “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Bằng những câu chữ, lý lẽ ngắn gọn, súc tích, Hồ Chủ tịch đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.

Toàn bộ bản “Tuyên ngôn Độc lập” chỉ có 1.120 từ, sắp xếp trong 49 câu. Dù ngắn gọn nhưng là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, khẳng định chủ quyền quốc gia của một dân tộc và giá trị về quyền con người của người dân một nước độc lập.

Giá trị thời đại của tư tưởng độc lập gắn liền với tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong bối cảnh bấy giờ, nội dung của “Tuyên ngôn Độc lập” còn là đòn phủ đầu vào âm mưu và hành động tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Việc Chính phủ lâm thời ra đời với bản “Tuyên ngôn Ðộc lập” ngày 2/9/1945, làm cho các lực lượng quân đồng minh đổ bộ vào Việt Nam sau đó phải tiếp xúc với chính quyền cách mạng, không còn cách nào khác.

Thời khắc lịch sử và tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh - ảnh 2

Theo PGS.TS Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Sử học (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam): Trong Tuyên ngôn Độc lập 2/91945, sau khi vạch rõ tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: "Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp của dân tộc Việt Nam buộc phải diễn ra bởi "Pháp chưa bao giờ trao quyền tự chủ đáng kể cho các nước thuộc địa Đông Nam Á cho đến khi buộc phải làm như vậy...".

PGS.TS Võ Xuân Vinh cho rằng, đó là lý do trong Lời kêu gọi gửi đồng bào toàn quốc, nhân dân Pháp và nhân sĩ toàn thế giới vào tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi vạch trần âm mưu thực dân Pháp muốn cướp Việt Nam một lần nữa đã chỉ rõ: "Nay Việt Nam ta chỉ có hai con đường: Hoặc bó tay chịu mất nước, cúi đầu làm nô lệ cho thực dân Pháp, hoặc kiên quyết phẩn đấu để giữ quyền độc lập và tự do... Dân Việt Nam quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ. Dù phải hy sinh, đau khổ đến mấy, dân Việt Nam cũng quyết giữ lấy quyền độc lập, tự do".

Tinh thần độc lập dân tộc gắn với tự do, trong đó tự do là tự do quốc gia-dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ rõ trong nhiều thời điểm khác nhau sau đó. Trước khi phái đoàn Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp đàm phán về Hiệp định sơ bộ vào tháng 4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò đoàn về các điểm cốt yếu, trong đó có nội dung về tự do, đó là sự thống nhất hoàn chỉnh về lãnh thổ; tự do liên hiệp với Pháp nhưng Việt Nam phải có ngoại giao độc lập với các nước lớn và các nước láng giềng; Pháp phải giới thiệu Việt Nam vào Liên hợp quốc”.

Kim chỉ nam trong lịch sử đấu tranh cách mạng
80 năm qua, tuyên ngôn và chân lý từ bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã trường tồn cùng lịch sử dân tộc, là kim chỉ nam để lịch sử đấu tranh cách mạng của nước ta giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến cứu nước, thống nhất đất nước. 

Thời khắc lịch sử và tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh - ảnh 3
Đoàn xe chở Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào vườn hoa Ba Đình, nơi cử hành lễ "Ngày độc lập". 
Ảnh tư liệu: TTXVN

Về tầm nhìn thời đại, trong “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển quyền con người thành quyền dân tộc. Ở đây, quyền con người và quyền dân tộc có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người, và ngược lại, thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.

“Tuyên ngôn Độc lập” cũng khẳng định rõ vai trò đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc tự do. Đồng thời thể hiện rõ ý chí, khát vọng của dân tộc Việt Nam. Đó là: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Và khi đã giành được độc lập thì “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Chính tinh thần đại đoàn kết này đã trở thành sức mạnh lớn để toàn thể dân tộc Việt Nam anh dũng, kiên cường giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, cũng như thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong công cuộc đổi mới đất nước sau này. 

Sau khi giành được độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, dân tộc ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, và cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tiếp đó là các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.

Sau khi thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đến nay, chúng ta tự hào với thành tựu to lớn của 40 năm đổi mới. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Đời sống nhân dân được cải thiện. Chính trị xã hội ổn định. Độc lập chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

 

Ý kiến bạn đọc

Tin cùng chuyên mục

Cháy mãi lý tưởng cách mạng và lòng yêu nước bất diệt

Cháy mãi lý tưởng cách mạng và lòng yêu nước bất diệt

(PNTĐ) - Trong dòng chảy hào hùng của lịch sử dân tộc, có những cái tên đã trở thành biểu tượng, mang trong mình "ngọn lửa"của lý tưởng và lòng yêu nước bất diệt. Đặng Thùy Trâm, một nữ liệt sĩ, một bác sĩ, một người con gái Hà Nội, chính là một trong những biểu tượng ấy. Câu chuyện về cuộc đời và những trang nhật ký của chị không chỉ là một bản anh hùng ca về sự dũng cảm mà còn là một minh chứng sống động về vẻ đẹp nhân văn, về tình yêu thương con người, vượt lên mọi khốc liệt của chiến tranh. Chị đã mang "ngọn lửa" của tuổi trẻ và tình yêu vào chiến trường, để rồi ngọn lửa ấy vẫn cháy mãi, soi sáng cho thế hệ hôm nay.
Nhiệm vụ tuyệt mật của Tổ GK1 thời chống Mỹ

Nhiệm vụ tuyệt mật của Tổ GK1 thời chống Mỹ

(PNTĐ) - Trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc nhằm chặn đứng sự chi viện cho miền Nam, có một chiến thắng vang dội được ví như “Điện Biên Phủ dưới nước” nhằm phá tan âm mưu “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. Đó là cuộc chiến chống phong tỏa đường biển bằng thủy lôi và bom từ trường do Mỹ rải thảm xuống khu vực đường sông, cảng biển của Việt Nam. Thành công vang dội này có đóng góp thầm lặng của những nhà khoa học với nhiệm vụ tối mật - mang bí danh Tổ GK1.
Chuyện về hai cô gái kéo cờ trong ngày 2/9/1945

Chuyện về hai cô gái kéo cờ trong ngày 2/9/1945

(PNTĐ) - 80 năm đã trôi qua, bà Lê Thi và bà Đàm Thi Loan - người kéo cờ tại buổi lễ “Tuyên ngôn Độc lập” 2/9/1945 diễn ra ở Quảng trường Ba Đình năm xưa đã về với cát bụi, nhưng câu chuyện về họ luôn được nhắc đến trong gia đình mỗi dịp kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám lịch sử. Với con cháu họ, đây là niềm tự hào không chỉ với gia đình mà còn là dấu mốc đáng nhớ của lịch sử dân tộc.
Ký ức về lễ duyệt binh đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Ký ức về lễ duyệt binh đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

(PNTĐ) - Ngày 2/9 tới sẽ diễn ra Lễ Diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trước thềm sự kiện quan trọng này, có một nhân chứng lịch sử lại bồi hồi nhớ về Lễ duyệt binh đầu tiên và lớn nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra vào đúng ngày 1/1/1955 mà bà được vinh dự tham gia. Bà là Tạ Quế Anh, năm nay đã ở tuổi 93...
Từ công cuộc giải phóng đến nâng tầm vị thế

Từ công cuộc giải phóng đến nâng tầm vị thế

(PNTĐ) - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là bước ngoặt lịch sử đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến mà còn mở ra một kỷ nguyên mới về quyền con người, trong đó quyền của phụ nữ lần đầu tiên được thừa nhận và đảm bảo bởi một Nhà nước dân chủ nhân dân. Và sau 80 năm kiến quốc, vị thế của phụ nữ Việt Nam đã có sự thay đổi sâu sắc, thể hiện ở nhiều lĩnh vực.