Phụ nữ Việt Nam 80 năm dưới cờ Đảng:
Từ công cuộc giải phóng đến nâng tầm vị thế
(PNTĐ) - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là bước ngoặt lịch sử đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến mà còn mở ra một kỷ nguyên mới về quyền con người, trong đó quyền của phụ nữ lần đầu tiên được thừa nhận và đảm bảo bởi một Nhà nước dân chủ nhân dân. Và sau 80 năm kiến quốc, vị thế của phụ nữ Việt Nam đã có sự thay đổi sâu sắc, thể hiện ở nhiều lĩnh vực.

Phụ nữ góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Cách mạng tháng Tám
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, vì thế ngay sau khi thành lập (năm 1930) đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết phát huy vai trò của phụ nữ tham gia vào công cuộc giải phóng đất nước. Giai đoạn từ năm 1930-1945, phụ nữ Việt Nam đã tham gia tích cực vào cao trào đấu tranh cách mạng và góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nhiều nữ chiến sĩ cộng sản đã trở thành những người lãnh đạo tiêu biểu trong đấu tranh giành độc lập dân tộc như: Bà Nguyễn Thị Minh Khai, bà Nguyễn Thị Thập…
Phong trào phụ nữ Việt Nam phát triển mạnh mẽ và sâu rộng từ những năm 1930 - 1931 với nhiều hình thức hoạt động phong phú, tập hợp đông đảo phụ nữ tham gia vào cao trào đấu tranh cách mạng, đòi quyền lợi kinh tế, cải thiện đời sống, chống áp bức của đế quốc phong kiến. Những tên gọi của Hội Phụ nữ qua các thời kỳ gắn liền với trọng tâm từng giai đoạn cách mạng như: Tổ chức Phụ nữ Giải phóng (thời kỳ 1930 - 1936), Hội Phụ nữ Dân chủ (thời kỳ 1936 - 1939), Hội Phụ nữ Phản đế (1939 - 1941), Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (1941 - 1945). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức Hội Phụ nữ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thực tế cách mạng cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ Việt Nam đã trực tiếp tham gia một cách chủ động vào Cách mạng Tháng Tám chứ không phải là một lực lượng thụ động để cho cách mạng giải phóng mình. Điều này thể hiện ở việc phụ nữ tham gia trên các mặt trận đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước từ việc vận động, tuyên truyền, tuần hành, mít tinh, điều hành các Hội, tổ chức, đoàn thể, lực lượng đấu tranh. Trong lực lượng lãnh đạo tổng khởi nghĩa, nhiều nữ chiến sĩ cách mạng đã được giao trọng trách, nhiều cán bộ chủ chốt của Hội Phụ nữ Cứu quốc đảm nhiệm vị trí trọng yếu. Từ đó, phụ nữ dần dần được giác ngộ về sức mạnh của mình, về vai trò của mình đối với xã hội.
Những ngày Cách mạng Tháng Tám sục sôi, phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ Hà Nội đã tham gia nhiều hoạt động lớn như tập hợp lực lượng biểu tình, mít tinh.
Ngày 15/8/1945, sau khi bị tiêu diệt một triệu quân Quan Đông, phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh không điều kiện. Thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến, Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Chị Lê Thu, đại biểu phụ nữ dự các cuộc họp mở rộng của Thành uỷ Hà Nội kiểm điểm lực lượng bản kế hoạch tiến hành giành chính quyền ở Hà Nội. Các cuộc họp đặt địa điểm ở nhà bà Hai Nhã xóm Duệ Tú, xã Dịch Vọng (Từ Liêm). Những tin tức mới nhất được kịp thời chuyển đến các đoàn viên Phụ nữ cứu quốc, gây một không khí phấn khởi, khẩn trương chuẩn bị. Đoàn Phụ nữ cứu quốc nhận lệnh bí mật huy động đoàn viên chiều ngày 17/8 đến trước Nhà hát Lớn - địa điểm mít tinh do Tổng hội viên chức tố chức.
Đến giờ khai mạc, bất ngờ trên tầng hai Nhà hát Lớn xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng. Đồng thời một rừng cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong quần chúng. Lập tức nổi lên tiếng hò reo vang dậy “Ủng hộ Việt Minh", "Đả đảo chính quyền thân Nhật", nữ đồng chí Từ Như Trang lên diễn đàn kêu gọi đồng bào ủng hộ Việt Minh. Tiếp đó, đồng chí Nguyễn Khoa Diệu Hồng (trong Đội tuyên truyền xung phong của đảng Dân chủ) lên đọc bản hiệu triệu hô hào đồng bào đoàn kết xung quanh Mặt trận Việt Minh, tiến lên khởi nghĩa. Quần chúng dự mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng.
Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc biểu tình tuần hành thu hút đông đảo quần chúng trên đường phố Hà Nội. Sáng sớm ngày 18/8, các nữ đội viên tuyên truyền xung phong tham gia cuộc vận động cho ngày Tổng khởi nghĩa. Các chị cùng các anh em đi xe ôtô, môtô, xe đạp phân phát truyền đơn. Chị em đoàn viên đến từng nhà vận động đồng bào tham gia cuộc mít tinh ngày 19/8. Từng nhóm nhộn nhịp chuẩn bị quyên góp vải khâu cờ, làm khẩu hiệu. Chỉ trong vòng một ngày đêm, hàng vạn lá cờ đỏ sao vàng đã may xong. Chị em nhập vào các đám đông trước Sở Liêm phóng, trước nhà dầu Xen đòi thả đồng bào, đồng chí bị hiến binh Nhật bắt. Buổi chiều, chị em được điều đi tham gia ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân A-vi-a ở khu vực Nhà hát Lớn.
Giữa những ngày sôi sục cách mạng, nước các triền sông lên to đe doạ một trận lụt lớn. Tối ngày 19/8, chị em nội thành, ngoại thành xung phong đi chống lụt dọc đê sông Hồng. Từ ngày 20/8, chị em ngoại thành và vùng lân cận tỏa đi hỗ trợ các địa phương lập chính quyền cách mạng.
Ngày 2/9/1945, phụ nữ Hà Nội được vinh dự thay mặt phụ nữ cả nước dự cuộc mít tinh lịch sử tại Quảng trường Ba Đình, nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” và Tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Tôi luyện phẩm chất anh hùng, bất khuất trong chiến đấu bảo vệ đất nước
Nguyên Ủy viên TƯ Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Đặng Thị Ngọc Thịnh trong bài viết “Phụ nữ Việt Nam, những chặng đường vẻ vang dưới lá cờ của Đảng” đã cho rằng, phụ nữ Việt Nam đã được tôi luyện trong hai cuộc kháng chiến. Ngày 3/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được chính thức thành lập trên cơ sở tập hợp các tổ chức phụ nữ, trong đó Đoàn Phụ nữ cứu quốc là nòng cốt. Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ, đông đảo phụ nữ được giải phóng đã tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự và quốc phòng góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Theo nguyên Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Việt Nam vừa tích cực thực hiện các nhiệm vụ ở hậu phương vừa trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường. Nhiều phong trào sôi nổi, lan tỏa rộng khắp như: Phụ nữ học cày bừa, phụ nữ tăng gia sản xuất đảm bảo cho bộ đội “ăn no đánh thắng”, mua công phiếu kháng chiến, “Diệt giặc dốt”, “Diệt giặc đói”, “Đời sống mới”, tham gia Hội mẹ chiến sĩ, sản xuất hàng tiêu dùng và vũ khí, quân trang, thuốc men, góp phần quan trọng vào việc tiếp tế cho kháng chiến…
Phụ nữ tham gia ngày càng tích cực vào hệ thống chính trị các cấp, từ cấp ủy đảng đến Hội đồng nhân dân, Ủy ban kháng chiến. Trong vùng địch tạm chiếm, phụ nữ vừa là lực lượng đấu tranh quan trọng vừa trực tiếp tham gia các hoạt động đánh giặc. Tên tuổi “Đội nữ du kích Hoàng Ngân”, Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Bùi Thị Cúc, Anh hùng Nguyễn Thị Chiên, “Nữ kiệt miền Đông” Hồ Thị Bi là những tấm gương làm rạng danh phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này.
Trân trọng những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương, Việt Nam tạm thời bị chia cắt hai miền. Miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn cho miền Nam ruột thịt.
Nguyên Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho rằng, các phong trào thi đua “5 tốt” (năm 1961), Phụ nữ “Ba đảm đang” (năm 1965) đã nhanh chóng phát triển thành những cao trào cách mạng sôi nổi, rộng lớn, huy động sức mạnh tổng hợp của hàng chục triệu phụ nữ từ mọi miền đất nước, trên mọi lĩnh vực, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. 42 nữ anh hùng, 9 đơn vị nữ anh hùng được tôn vinh; 1.718 chị em được thưởng Huy hiệu Bác Hồ, trên 5.000 chị em là chiến sĩ thi đua toàn quốc, gần 4 triệu hội viên đạt danh hiệu phụ nữ “Ba đảm đang”... Đó là những minh chứng hùng hồn về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của phụ nữ Việt Nam. Sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Xứng đáng với lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang, chống Mỹ cứu nước”.
Nâng tầm vị thế, tự tin bước vào kỷ nguyên mới
Theo GS.TS Nguyễn Hữu Minh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Chủ tịch Hội Xã hội học Việt Nam, nâng cao vị thế của phụ nữ nói chung và vị thế của phụ nữ trong chính trị nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc nâng cao vị thế chính trị của phụ nữ không chỉ là vấn đề công bằng xã hội, mà còn là điều kiện cần thiết để thực hiện toàn diện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của quốc gia.
“Năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử, tất cả những người phụ nữ Việt Nam, công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ 18 tuổi trở lên đã được cầm lá phiếu nói lên nguyện vọng của mình, bầu những người đại diện cho họ trong đất nước. Và cũng lần đầu tiên đã có 10 phụ nữ trong 403 đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” - GS.TS Nguyễn Hữu Minh cho biết.
Theo GS.TS Nguyễn Hữu Minh, trong giai đoạn phục hồi kinh tế sau chiến tranh, đồng thời phải chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, với sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ, thể hiện rõ nét ở Chỉ thị 44-CT/TƯ, số cán bộ nữ tham gia công tác Đảng, chính quyền trong thời kỳ này đã tăng đáng kể. Những người phụ nữ Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh và khả năng lãnh đạo chính trị. Bà Nguyễn Thị Thập, là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được bầu là Phó Chủ tịch Quốc hội liên tục từ khóa III (1964 - 1971) đến khóa VI (1976 -1981). Bà Nguyễn Thị Định là phụ nữ đầu tiên được phong hàm cấp tướng trong Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 1974) và bà Nguyễn Thị Bình được ghi nhận là nữ bộ trưởng đầu tiên của ngành ngoại giao (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, năm 1969).
Thời kỳ Đổi mới đánh dấu sự nâng tầm vượt bậc của phụ nữ Việt Nam tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Năm 1987, bà Nguyễn Thị Định là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được bầu là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, một vị trí lãnh đạo quan trọng của đất nước mà từ đó cho đến nay luôn luôn có đại diện của phụ nữ Việt Nam nắm giữ. Từ năm 1987 cũng gần như thường xuyên có sự hiện diện của đại diện phụ nữ Việt Nam là Phó Chủ tịch Quốc hội. Năm 1996, tại Đại hội VIII của Đảng, bà Nguyễn Thị Xuân Mỹ là người phụ nữ đầu tiên được bầu vào Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Tiếp đó năm 2011, bà Tòng Thị Phóng là nữ chính khách thứ hai trong Bộ Chính trị và là nữ chính khách đầu tiên người dân tộc thiểu số giữ cương vị này. Đặc biệt năm 2016, lần đầu tiên ở Việt Nam có 3 phụ nữ là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng Sản Việt Nam và cũng trong năm 2016, lần đầu tiên có Chủ tịch Quốc hội là phụ nữ, bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Những sự kiện này cho thấy tác động của chủ trương đánh giá đúng và đề cao vai trò người phụ nữ trong lãnh đạo và quản lý, hướng tới sự bình đẳng hoàn toàn, thực chất giữa phụ nữ và nam giới ở Việt Nam.
Việc kiên định với các mục tiêu về bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước không chỉ thể hiện cam kết của Việt Nam trong tiến trình phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, mà còn là minh chứng cho sự phát triển tiến bộ và nhân văn của một quốc gia lấy con người làm trung tâm. Phụ nữ - một nửa của xã hội - cần tiếp tục được trao quyền và tạo cơ hội để phát huy đầy đủ vai trò và tiềm năng quản lý, lãnh đạo trong kỷ nguyên mới. Tăng cường vị thế chính trị của phụ nữ cũng là điều kiện cần thiết để thực hiện toàn diện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" của quốc gia, phát huy những giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám. Việc tiến hành các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới về chính trị như nêu trên rất cần được quan tâm ngay trong giai đoạn chuẩn bị nhân sự cho đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV.